Đồng chí: Kim Đình Hưng- Giám đốc công ty
Công ty TNHH MTV thủy lợi Tam Đảo được thành lập tháng 04/1988 theo Quyết định số: 56/QĐ-UBND ngày 04 tháng 04 năm 1988 của UBND huyện Tam Đảo, trên cơ sở sát nhập xí nghiệp sản xuất kinh doanh tổng hợp Xạ Hương và Công trường xây dựng thủy lợi. Với tên khai sinh là xí nghiệp dịch vụ thủy lợi Tam Đảo trực thuộc UBND huyện Tam Đảo, trụ sở chính đãng tại K10 QL2B, Hợp Châu, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Giám đốc đầu tiên của Công ty là đồng chí Trần Đức Xuân.
Ngày 29/4/1988, chi bộ Công ty được thành lập theo Quyết Nghị số: 672/QN-HU ngày 29/04/1988 huyện ủy Tam Đảo về việc thành lập chi bộ cơ sở; tên ban đầu là chi bộ xí nghiệp dịch vụ thủy lợi huyện và chỉ định chi ủy lâm thời 03 đồng chí, chỉ định Bí thư chi bộ lâm thời là đồng chí Trần Đức Xuân, tổng số là 12 đảng viên để kịp thời chỉ đạo các hoạt động của doanh nghiệp. Cùng với việc thành lập chi bộ, các tổ chức đoàn thể như Công đoàn cơ sở, chi đoàn Thanh niên, tự vệ, tổ Nữ công cũng đã lần lượt được thành lập để đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu sinh hoạt của đoàn viên và người lao động.
Khi mới thành lập Công ty có Giám đốc 01, phó Giám đốc 02 và các bộ phận kế toán tổng hợp, hành chính, kỹ thuật, trạm Xạ Hương, tổng số CBCNV 30 người. Nhiệm vụ ban đầu khi mới thành lập: Quản lý, khai thác công trình hồ chứa Xạ Hương, bao gồm các hạng mục công trình đầu mối và trên 65 km kênh (100% kênh đất); nguồn nước 12,73 triệu m3 tưới cho 1200 ha của các xã: Minh quang, Hợp Châu, Gia Khánh, một phần của xã Hồ Sơn, Kim Long, Hương Sơn và nông trường Tam Đảo cũ.
Trụ sở Văn phòng Công ty ban đầu là tận dụng khu nhà của Công trường thủy lợi huyện, khi đã nhà làm việc chật hẹp, cơ sở vật chất còn hạn chế. Những ngày đầu mới thành lập Công ty gặp rất nhiều khó khăn, không được Nhà nước hỗ trợ bất kỳ một khoản nào, công trình hồ đập đều mới đưa vào khai thác chưa đồng bộ, diện tích tưới thấp, giá lúa thấp, thủy lợi phải thu bằng thóc, tỷ lệ thu TLP thấp, đã ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu, đời sống thu nhập CBCNV gặp nhiều khó khăn. Nhưng tinh thần đoàn kết luôn là điểm mạnh, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để Công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao tại thời điểm và giai đoạn lúc bấy giờ.
Năm 1990 tiếp nhận bàn giao hệ thống hồ Làng Hà, năm 1993 tiếp nhận bàn giao hồ Gia Khau, năm 2001 tiếp nhận bàn giao hệ thống trạm bơm Hoàng Hoa. Năm 1992, xí nghiệp dịch vụ thủy lợi Tam Đảo đổi tên thành xí nghiệp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi Tam Đảo trực thuộc Sở NN& PTNT Vĩnh Phúc; Năm 1998, xí nghiệp được nâng cấp và đổi tên thành công ty khai thác công trình thuỷ lợi Tam Đảo tại Quyết định số: 1384/QĐ-UB ngày 08/6/1999 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động công ích.
Thời gian này Công ty có 01 giám đốc, 01 phó Giám đốc, các phòng ban đơn vị được củng cố bao gồm: 02 phòng chức năng là phòng kế toán, phòng kỹ thuật; 04 trạm khai thác công trình thủy lợi làng Hà, Xạ Hương, Vĩnh Thành, Gia Khau và trạm bơm Hoàng Hoa. Công trình thủy lợi được giao quản lý 03 hồ chứa, 01 trạm bơm tưới và 115 km kênh mương.
Trong công tác tưới tiêu phục vụ sản xuất khó khăn nhất là vụ Đông Xuân 1998- 1999, hạn hán nghiêm trọng, nguồn nước các hồ chứa đều ở dưới mực nước chết, Công ty đã đầu tư mua sắm các tổ máy bơm dã chiến, ngày đêm bơm tát quyết tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp, riêng hồ Xạ Hương CBCNV phải nằm trong lòng hồ 53 ngày đêm để bơm tát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấy được 584 ha. Đối với công tác quản lý công trình, Công ty đã phát động phong trào thi đua với khẩu hiệu “kênh thông, hành lang thoáng sẵn sàng phục vụ sản xuất”, đã có nhiều sáng tạo trong điều hành, cụ thể là thực hiện cơ chế khoán đối với nhóm và người lao động, nhất là bộ phận sửa chữa công trình, mô hình ban đầu được thực hiện ở trạm khai thác công trình thủy lợi Xạ Hương, sau đã được mở rộng thực hiện trong toàn Công ty, kênh mương được tu bổ sửa chữa rất tốt, đồng bộ, kịp thời, luôn đảm bảo phục vụ sản xuất.
Từ 1988 đến 2005 Chi bộ đã trải qua 7 nhiệm kỳ đại hội, qua mỗi nhiệm kỳ chi ủy chi bộ đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, quan tâm bồi dưỡng và phát triển đảng viên, thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, đảm bảo việc làm, chế độ cho người lao động. Chi đoàn Thanh niên, Công đoàn, Nữ công đã phát huy được vị trí, vai trò hoạt động rất sôi nổi, phát động nhiều phong trào thi đua, thực hiện có chiều sâu, hoạt động nề nếp.
Năm 2004, do có thay đổi về địa giới hành chính, huyện Tam Đảo mới được thành lập, Tỉnh ủy quyết định trưng tập Văn phòng làm việc của Công ty làm trụ sở của huyện ủy Tam Đảo, Văn phòng Công ty tạm thời chuyển vào đãng tại trạm khai thác công trình thủy lợi Xạ Hương ở km13 QL 2B, Hồ Sơn, Tam Đảo. Năm 2006 trụ sở Văn phòng Công ty được chuyển về khu nhà tạm ở km9, QL2B Hợp châu, Tam Đảo, vừa làm việc vừa xây dựng trụ sở mới, năm 2007 hoàn thành và đưa vào sử dụng như hiện nay. Diện tích đất trụ sở 4.749 m2, diện tích xây dựng 858,49 m2.
Thời gian này đồng chí Văn Đăng Khánh mới được điều động về làm Giám đốc Công ty, khi đã cơ sở vật chất khó khăn, lực lượng lao động không đồng đều, năng lực trữ nước và cấp nước của công trình thủy lợi có nhiều hạn chế. Công ty đã tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh, tăng cường ổn định tổ chức, củng cố bộ máy, xây dựng một định hướng mới, phương thức quản lý mới khoa học, phù hợp với thực tiễn tại đơn vị, xây dựng cho mỗi CNCNV có một tư tưởng làm việc mới, lề lối làm việc mới, quan tâm đào tạo cán bộ trẻ có năng lực tâm huyết, chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, cử nhiều cán bộ đi học Đại học, trung cấp thủy lợi, trung cấp lý luận, văn thư lưu trữ, kế toán, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn và tham quan các mô hình quản lý điển hình ở các Công ty thủy nông ở một số tỉnh khác, mở rộng ngành nghề, tiếp tục phát huy sức mạnh tập thể, duy trì tốt mối đoàn kết nội bộ, tích cực thi đua học tập, lao động sản xuất để phục vụ nhân dân và phát triển Công ty.
Năm 2006, Nghị quyết 03-NQ/TU ngày 27/12/2006 của Tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020 được ban hành, đây là Nghị quyết quan trọng, là chủ trương lớn của Tỉnh ủy đối với ngành nông nghiệp và nông dân trong tỉnh. Để thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh đã có nhiều Nghị quyết đã là: Nghị quyết số: 09//2007/NQ-HĐND ngày 11/5/2007 về việc hỗ trợ 100% TLP cho sản xuất trồng trọt trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2007 – 2011; Nghị quyết số 08/2007/NQ-HĐND ngày 11/5/2007 về chương trình kiên cố hóa kênh mương giai đoạn 2007-2011; Nghị quyết 21/2008/NQ-HĐND ngày 25/7/2008 về miễn thủy lợi phí cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh; UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án số 34/ĐA-UBND của UBND tỉnh về quản lý công trình thủy lợi một đầu mối. Tỉnh đã tin tưởng giao cho Công ty là đơn vị thực hiện thí điểm tiếp nhận toàn bộ công trình thủy lợi từ địa phương về Công ty quản lý. Trước những chủ trương mới, quy định mới và trách nhiệm được giao, Đảng ủy, Lãnh đạo Công ty đã xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, nặng nề, đã tập trung lãnh chỉ đạo quyết liệt, toàn thể cán bộ, đảng viên, CBCNVC-LĐ trong Công ty đã tích cực nghiên cứu, học tập, vào cuộc để triển khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Thực hiện Văn bản số: 1775/UBND-NN4, ngày 25/5/2007 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc bàn giao các công trình thủy lợi từ các xã, hợp tác xã về các công ty KTCT thủy lợi quản lý; Quyết định số: 4557/QĐ-UBND Ngày 15/12/2008, UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc bàn giao thí điểm các công trình thủy lợi từ một số xã, phường thị trấn trên địa bàn tỉnh cho các công ty khai thác công trình thủy lợi quản lý; Quyết định số: 3798/QĐ-UBND ngày 30/10/2009 UBND tỉnh Vĩnh Phúc v/v bàn giao các công trình thủy lợi từ một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh về các Công ty KTCT thủy lợi quản lý năm 2009. Từ tháng 7 năm 2007 đến 2009, tiếp nhận bàn giao toàn bộ công trình thủy lợi, CB HTX của 18 xã và thị trấn ( trong đã: huyện Tam Đảo 08 xã, Tam Dương 03 xã, Bình Xuyên 07 xã, thị trấn). Tổng số công trình thủy lợi được nhận bàn giao là: Hồ, đập 152; phai, lái 62; trạm bơm 42; công trình thủy lợi khác 960; kênh mương 967 km; (Xây 92.399 km; đất 847.669 km), nhận sự từ HTX tiếp nhận 65 người, diện tích mặt bằng tưới 2.317 ha. Các công trình thủy lợi trước khi bàn giao về Công ty cơ bản đã xuống cấp, ít được đầu tư tu bổ sửa chữa, vỡ lở, bị bồi lắng, lấn chiếm nhiều, khả năng trữ nước thấp, tỷ lệ đầu tư xây mới, cải tạo nâng cấp thấp, có nhiều bất cập về quy hoạch, thiếu đồng bộ về giải pháp kỹ thuật, hầu hết cán bộ ở các HTX, tổ thủy nông đã lớn tuổi, lại không được đào tạo về chuyên môn nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý vận hành công trình thủy lợi; diện tích canh tác nhỏ lẻ, manh mún, nhiều diện tích khó khăn về nước, có nhiều vùng diện tích tưới bấp bênh, chỉ canh tác được một vụ trên năm.
Qúa trình triển khai bàn giao công trình thủy lợi của địa phương, bước đầu Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn đó là: một bộ phận nhân dân, chính quyền địa phương không đồng thuận, ủng hộ, do có thể phá tan HTX nông nghiệp đang tồn tại gần 50 năm, lo lắng ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập và băn khoăn về tài sản mà nhân dân đãng góp xây dựng công trình thủy lợi,….Nắm được những khó khăn trên BCH đảng bộ, Lãnh đạo Công ty đã tập trung chỉ đạo và quyết tâm triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết, với tinh thần bám chắc Nghị quyết, bám chắc đề án vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa tháo gỡ khó khăn, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để triển khai thực hiện, tổ chức nhiều cuộc họp, đánh giá, thống kê hiện trạng công trình thủy lợi, chuẩn bị kỹ lưỡng cho công tác bàn giao.
Sau khi tiếp nhận bàn giao toàn bộ công trình thủy lợi từ các địa phương, Công ty luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ với các địa phương. Công ty đã tập trung chỉ đạo, thường xuyên đôn đốc triển khai thực hiện, chủ động khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo và vận dụng tình hình thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ. Triển khai quy hoạch hệ thống công trình thủy lợi một cách đồng bộ, đề nghị tỉnh đầu tư xây mới, cải tạo nâng cấp một số hồ chứa nhỏ, kênh mương, các trạm bơm điện, đập dâng ngang suối đảm bảo vận hành an toàn, nâng cao hiệu quả; phân vùng tưới rừ ràng và tránh được lóng phí trong việc đầu tư xây dựng những công trình không cần thiết, thực hiện kết nối, mạng hệ thống công trình thủy lợi do vậy giảm được một số công trình đầu mối trạm bơm, hồ ao mà vẫn phát huy được hiệu quả. Quan tâm chú trọng đến lực lượng cán bộ địa phương, mở các lớp đào tạo bồi dưỡng tại Công ty như: công nhân vận hành bơm điện, công nhân thủy nông, tổng số là 167 người. xây dựng Quy chế hoạt động cho lực lượng thủy lợi nội đồng, củng cố công tác tổ chức, thành lập 23 trạm thủy lợi cơ sở, cán bộ trạm thủy lợi được ký hợp đồng dài hạn, được hưởng lựơng và đãng BHXH, BHYT, BHTN và các chế độ khác như CBCNV trong Công ty, ngoài ra Công ty đã phối hợp UBND các xã, thị trấn thành lập các tổ thủy nông nội đồng và được hưởng chế độ theo quy chế. Trong thời gian này Công tác quản lý công trình, tưới tiêu đến tận mặt ruộng, công việc nhiều, ỏp lực mới nhận bàn giao công trìnhthủy lợi cao, thời tiết thất thường, nhưng do thực hiện tốt công tác tư tưởng, quan tâm đời sống và phát huy năng lực của cán bộ, lên đã đạt được những kết quả nhất định trong quản lý vận hành và tưới tiêu phục vụ sản xuất, các công trìnhđược quản lý, bảo vệ tốt, kờnh mương được đầu tư sửa chữa thông thoáng từ đầu mối đến mặt ruộng, nhiều tuyến kênh được kiên cố hóa đã tạo điều kiện cho việc dẫn nước nhanh hơn, tiết kiệm nước. Quá trình thực hiện thớ điểm mô hỡnh bàn giao toàn bộ công trìnhthủy lợi và diện tích tưới tiêu của các xã về Công ty quản lý theo mụ hỡnh một đầu mối, cho thấy công tác quản lý khai thác côngtrìnhthủy lợi ngày càng hiệu quả, chất luợng tưới tiêu cho nông nghiệp được nâng lên rõ rệt, có vùng tưới trước khi bàn giao công trình thủy lợi chỉ sản xuất được một vụ, sau bàn giao đã trồng cấy được 03 vụ chắc ăn, diện tích khó khăn về nước cũng đã được khắc phục rõ rệt, từ diện tích 1.043ha xuống c̣n 480 ha, công tác cung cấp nước tưới tiêu đến tận kênh nội đồng mà nhân dân không phải đãng góp bất cứ khoản nào liên quan đến việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, khụng cũn hiện tượng tranh chấp diện tích tưới giữa Công ty và các xã, thị trấn.
Cùng với việc tiếp nhận công trình thủy lợi của 18 xã, thị trấn trên địa bàn, Công ty cũn tiếp nhận một số hồ chứa lớn mới hoàn thành và đi vào sử dụng, cụ thể: Năm 2004 tiếp nhận quản lý khai thác hồ chứa nước Vĩnh Thành, năm 2007 tiếp nhận bàn giao hệ thống công trình thủy lợi hồ Thanh Lanh. Với đặc thù là quản lý nhiều hồ chứa nước ven chân núi Tam Đảo, thực tiễn cho thấy có nhiều khó khăn trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi. Đặc biệt là đợt mưa lũ lịch sử từ ngày 31/10 đến 05/11/2008, Công ty đã chủ động theo dơi chặt chẽ diễn biến thời tiết, mực nước, lượng mưa, diễn biến công trình tại các hồ chứa nước, cương quyết vận hành điều tiết lũ nhanh, kịp thời, giữ cho hồ Xạ Hương được an toàn, hạn chế thiệt hại ở khu vực hạ du hồ chứa nước, đợt mưa đã làm hư hỏng nhiều công trình thủy lợi, gây rất nhiều khó khăn về kinh phí để khắc phục công trình bị hư hỏng.
Thỏng 11 năm 2009, chuyển đổi doanh nghiệp từ công ty KTCTTL Tam Đảo thành công ty TNHH một thành viên thủy lợi Tam Đảo trực thuộc UBND tỉnh Vĩnh Phúc theo Quyết định số:1540/QĐ-UBND ngày 26/5/2009 của UBND tỉnh Vĩnh Phỳc; Sau khi chuyển đổi đồng chí Văn Đăng Khánh tiếp tục làm Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty. Nhiệm vụ chính là quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi, điều tiết nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, đời sống dân sinh kinh tế xã hội trong địa bàn 18 xã thuộc 3 huyện Tam Đảo,Tam Dương, Bình Xuyên.
Tháng 4 năm 2016, đồng chí Nguyễn Thanh Hòa được bổ nhiệm làm Chủ tịch Công ty, tháng 11/2016 đồng chí Kim Đỡnh Hưng được bổ nhiệm làm Giám đốc Công ty. Cơ cấu tổ chức hiện nay: Lănh đạo Công ty 03, đơn vị trực thuộc 11, dưới các xớ nghiệp thủy lợi là các Trạm Thủy lợi, công nhân bơm, công nhân thủy nông, tổng số CBCNV hiện nay là 141 người. Từ sau chuyển đổi doanh nghiệp, công tác tổ chức hàng năm được rà soát và củng cố, công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếp tục được quan tâm, cử nhiều cán bộ đi học đại học, cao cấp lý luận, trung cấp lý luận, xây dựng điều chỉnh bổ sung Nội quy, Thỏa nước lao động tập thể và các Quy chế phù hợp với t́nh h́nh mới.
Năm 2013 tiếp nhận hồ Bản Long, năm 2018 tiếp nhận hồ Đồng Mỏ, năm 2017 tiếp nhận trạm bơm tiêu Sơn Lôi. Số công trìnhđầu mối, kênh mương, công trìnhthủy lợi tăng lên, đồng nghĩa với nhiệm vụ nặng nề hơn, vất vả hơn. Tổng số công trình thủy lợi hiện nay Công ty đang quản lý: 07 hồ chứa nước lớn, 01 hồ chứa nước vừa, 124 hồ chứa nhỏ, 34 trạm bơm điện, 46 đập dâng ngang suối, 909 km kênh mương các loại và 78,8 km kênh tiêu và 1624 công trình thủy lợi khác. Từ 1999 đến nay hệ thống công trình thủy lợi được tỉnh, nhà nước quan tâm đầu tư nhiều kinh phí để xây mới, cải tạo nâng cấp 106 công trình thủy lợi, tổng kinh phí đầu tư 440,3 tỷ đồng. Thực hiện chương trình nông thôn mới từ 2011 đến 2018 Công ty đã triển khai và thực hiện hoàn thành tiêu trí thủy lợi, góp phần về đích nông thôn mới của 18/18 xã, thị trấn trên địa bàn 03 huyện Tam Đảo, Tam Dương và Bình Xuyên.Việc đầu tư xây dựng mới, cải tạo nâng cấp các công trình thủy lợi đã từng bước đồng bộ hóa, hiện đại hóa công trình thủy lợi, nâng cao ổn định công trình, nâng cao năng lực trữ nước và dẫn nước, cơ bản đáp ứng được công tác PCTT&TKCN, công tác cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh kinh tế xã hội trong khu vực.
Từ năm 2010 – 2014, Công ty thực hiện theo phương thức cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thực hiện theo hình thức giao kế hoạch. Từ năm 2015 đến nay Công ty thực hiện theo phương thức cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thực hiện theo h́nh thức đặt hàng, các hoạt động liên quan đến công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp đều được đơn vị đặt hàng là sở NN&PTNT kiểm tra giám sát chặt chẽ, công tác đặt hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác quản lý công trình và tưới tiêu phục vụ sản xuất.
Tháng 6/2017, Luật Thủy Lợi được ban hành, có hiệu lực thực hiện từ 01/7/2018. Đây là chính sách mới đối với ngành thủy lợi nói riêng, ngành nông nghiệp nói chung, cũng là cơ hội để ngành thủy lợi phát triển, bắt kịp sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Từ khi Luật thủy lợi ra đời dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, sở NN&PTNT, Công ty đã triển khai các nội dung đó là: Phối hợp với chính quyền địa phương trong công tác phổ biến tuyên truyền các nội dung của Luật Thủy Lợi; từng bước triển khai thực hiện được các nội dung của Luật Thủy Lợi và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật.
Hiện nay các hồ chứa nước có tổng lượng nước trữ được từ 40 – 50 triệu m3 nước, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho trên 15.000 ha/năm đất canh tác sản xuất nông nghiệp và trên 14.900 ha tiêu nước khu vực nông thôn trên địa bàn 18 xã, thị trấn thuộc 3 huyện Tam Đảo, Tam Dương và Bình Xuyên. Quá trình triển khai thực hiện mặc dù còn khó khăn về nguồn nước, địa bàn miền núi địa hình chia cắt, đất đai bạc màu, không bằng phẳng, độ chênh lệch ruộng lớn, kênh mương đa số ven theo các sườn đồi núi nên thường xuyên bị vỡ lở, bồi lấp. công tác quản lý công trình rất phức tạp, hơn 40% dân số là dân tộc thiểu số có tập quán sinh hoạt riêng; Thời tiết diễn biến phức tạp, nửa cuối giai đoạn này nguồn tài chính của Công ty rất hạn hẹp do giá dịch vụ thủy lợi công ích, kinh phí thủy lợi nội đồng được ban hành và thực hiện từ năm 2012 đến nay đã quá lạc hậu nhưng không được điều chỉnh. Bằng trí tuệ, lòng nhiệt tình tập thể Công ty đã tổ chức tưới tiêu khoa học phù hợp với thực tế, tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc tháo gỡ khó khăn, tiết kiệm mọi chi phớ không cần thiết, tăng cường tu bổ sửa chữa công trình, tăng cường công tác tưới tiêu, do vậy toàn bộ diện tích trong khu vực phục vụ được tưới tiêu đảm bảo diện tích, chất lượng tưới ngày càng được nâng cao góp phần quan trọng vào quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn nâng cao đời sống nông dân của tỉnh.
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ công ích, Công ty tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh phụ như: Tư vấn khảo sát thiết kế, xây lắp công trình, cấp nước cho công nghiệp, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, tổng doanh thu từ năm 2010 đến nay là 25,9 tỷ đồng. Công tác đầu tư cơ sở vật chất cho các phòng ban, đơn vị tiếp tục được quan tâm đầu tư, do vậy từ Văn phòng đến các xí nghiệp đều có nhà làm việc khang trang sạch đẹp, các trang thiết bị phục vụ làm việc, sinh hoạt đều được mua sắm cung cấp đầy đủ, đời sống vật chất tinh thần được nâng lên. Trong những năm qua đời sống CBCNV luôn ổn định thu nhập năm sau cao hơn năm trước; năm 2010 thu nhập bình quân là 4,0 triệu đồng/ người/ tháng; năm 2019 thu nhập bình quân là 6,7 triệu đồng/ người/ tháng, mọi chế độ của người lao động được thực hiện đầy đủ, đúng quy định của nhà nước.
Cùng với sự phát triển của Công ty, công tác xây dựng đảng, xây dựng các tổ chức đoàn thể cũng đã được quan tâm chú trọng và có bước phát triển. Tháng 2 năm 2006 chi bộ công ty khai thác công trình thủy lợi Tam Đảo nâng cấp lên thành Đảng bộ công ty khai thác công trình thủy lợi Tam Đảo tại Quyết định số: 67-QĐ/HU ngày 24/01/2006 của huyện ủy Tam Đảo, Đảng bộ có 06 chi bộ trực thuộc, tổng số 34 đảng viên; Tháng 3 năm 2006, đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2006-2008, Bí thư là đồng chí Đỗ Văn Tư, phó Bí thư là đồng chí Văn Đăng Khánh; Tháng 5/2008, đảng bộ tổ chức Đại hội giữa nhiệm kỳ 2005-2010, đã bầu được đồng chí Văn Đăng Khánh làm Bí thư đảng ủy, đồng chí Hà Minh Châu làm phó Bí thư đảng ủy. Tháng 01/2010, Đảng bộ công ty khai thác công trình thủy lợi Tam Đảo đổi tên thành đảng bộ công ty TNHH một thành viên thủy lợi Tam Đảo tại quyết định số:552-QĐ/HU ngày 22/01/2010 của huyện ủy Tam Đảo về việc đổi tên đảng bộ cơ sở. Tháng 5 năm 2010, 2015 đảng bộ đại hội lần thứ II, III đồng chí Văn Đăng Khánh tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy, hiện nay đảng bộ có 08 chi bộ, tổng số 94 đảng viên. Năm 2013, đảng bộ tiếp nhận 45 đảng viên (là cán bộ tiếp nhận từ địa phương về làm cán bộ trạm thủy lợi) từ các chi đảng bộ các địa phương theo quy định của Điều lệ Đảng. Trong những năm qua đảng bộ luôn phát huy vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước hoạt động có nề nếp, luôn xây dựng đảng bộ mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình, nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và đảng viên, thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cán bộ đảng viên, duy trì sinh hoạt, thực hiện tốt Công tác phát triển đảng.
Tháng 3/2008 chi đoàn thanh niên được nâng cấp thành đoàn Thanh niên cơ sở; Năm 2007 hội CCB công ty cũng được thành lập. Các tổ chức đoàn thể hiện nay: Công đoàn cơ sở với tổng số 139 đoàn viên, sinh hoạt ở 07 công đoàn bộ phận; Đoàn thanh niên với tổng số 41 đoàn viên, sinh hoạt ở 03 chi đoàn trực thuộc; Hội Cựu chiến binh Công ty có 06 hội viên. Hoạt động của các tổ chức đoàn thể luôn được đảng ủy, Lãnh đạo Công ty quan tâm lãnh, chỉ đạo, đầu tư cơ sở vật chất, thời gian để duy trì các hoạt động. Quá trình hoạt động các tổ chức đoàn thể luôn phối hợp, phát động và tổ chức được nhiều phong trào thi đua yêu nước, luôn duy trì hoạt động có nề nếp, hàng năm đã tổ chức được nhiều cuộc thi, nhiều chương trình, tạo nên khi thế thi đua sôi nổi, môi trường sinh hoạt lành mạnh, góp phần xây dựng đảng bộ, xây dựng Công ty ngày càng vững mạnh.
Hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, sự quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ của các sở ban ngành và các huyện trong địa bàn, sự phối hợp với các xã, thị trấn và các đơn vị có liên quan. Công ty luôn phát huy tinh thần đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn thử thách, phát huy năng lực, trí tuệ của từng tập thể và CBCNV, tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện đồng bộ, toàn diện mọi nhiệm vụ, được tỉnh, các cấp các ngành đánh giá cao. Công ty đã hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu kế hoạch đề ra trên mọi lĩnh vực về quản lý công trình, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, đời sống dân sinh kinh tế, xã hội, Công tác quản lý kinh tế và xây dựng cơ bản, tổ chức đảng và các đoàn thể đi vào nề nếp hoạt động có hiệu quả, phát huy vai trò chỉ đạo của đảng bộ, cơ sở vật chất khang trang sạch đẹp, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng lên. Với những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng Công ty, năm 2007, Công ty được UBND tỉnh nâng từ doanh nghiệp hạng III lên doanh nghiệp hạng II và duy trì xếp hạng doanh nghiệp đến nay. Đảng bộ nhiều năm đạt trong sạch vững mạnh, các tổ chức đoàn thể nhiều năm đạt vững mạnh. Hàng năm nhiều tập thể, cá nhân trong Công ty được tặng nhiều bằng khen, giấy khen, cờ thi đua, danh hiệu thi đua. Đặc biệt năm 2003 tập thể Công ty được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng III, năm 2008 tập thể Công ty được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng hạng II, đây là phần thưởng cao quý, ghi nhận sự nỗ lực liên tục, không mệt mỏi của tập thể CBCNV trong toàn Công ty từ khi thành lập đến nay.
Trong thời gian tới Công ty nhận định có nhiều thời cơ, nhưng cũng có nhiều khó khăn thử thách, đòi hỏi mỗi tập thể, mỗi cá nhân trong Công ty tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, ra sức thi đua lao động học tập, phấn đấu cho sự nghiệp phát triển thủy lợi, phát triển nông nghiệp và xây dựng Công ty ngày càng vững mạnh.